Sự nghiệp Mạc_Thái_Tổ

Triều vua Lê Uy Mục

Năm 1504 vua triều Lê sơ Lê Hiến Tông chết, nhà vua được sử gia Vũ Quỳnh cho là bậc vua hiền, giữ vững cơ đồ, chẳng may chết sớm. Người con thứ lên thay, tức vua Lê Túc Tông cũng mất một năm sau đó, thọ 17 tuổi. Túc Tông mất, người anh lên thay, tức vua Lê Uy Mục. Vua Uy Mục nghiện rượu, hoang dâm, thích ra oai, để cho họ ngoại hoành hành, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, cơ đồ Nhà Lê đi xuống từ đây.[24]

Mạc Đăng Dung là người có sức khỏe. Thời trẻ, ông nhà nghèo làm nghề đánh cá. Thời Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua.[25] Trong hàng ngũ võ quan Nhà Lê, theo sử gia Lê Quý Đôn, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người thật thà ngay thẳng. Năm 1508 Mạc Đăng Dung được phong làm Đô Chỉ huy sứ vệ Thần Vũ.[26]

Thời bấy giờ, vua Uy Mục để cho họ ngoại lộng hành, lòng dân căm phẫn; lại nghi kị các quan, các tôn thất, nhiều người tự lo cho thân mình, muốn nổi loạn. Năm 1509, vua xua đuổi người tôn thất và công thần về xứ Thanh Hóa, viên tướng Nguyễn Văn Lang đem quân ba phủ khởi binh ở Tây Đô, giữ cửa biển Thần Phù. Người cháu của Lê Thánh Tông, Giản Tu công Lê Oanh bị bắt, trốn ra, chạy đến Thanh Hóa được Nguyễn Văn Lang phò lập làm minh chủ. Quân của Lê Oanh từ Thanh Hóa tiến ra Thăng Long, vua Uy Mục bị thua, uống thuốc độc tự tử, Lê Oanh lên ngôi tức vua Lê Tương Dực. Sử sách không chép gì về Mạc Đăng Dung trong thời gian này.[27]

Triều vua Lê Tương Dực

Vua Tương Dực lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, nhiều nơi dấy binh làm loạn, dẫn tới sự suy vong của Nhà Lê sơ.[28]

Năm 1511 Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên bá, bây giờ các thuật sĩ, hào kiệt nói với vua rằng phương đông có sắc khí thiên tử. Vua Lê Tương Dực sai đại thần Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn, Hải Phòng, tức quê của Mạc Đăng Dung trấn yểm. Đăng Dung đi trong chuyến đó mà không ai biết.[29]

Thời gian này có năm gặp hạn hán, đói to, các cuộc nổi dậy chống lại triều đình như của Trần Tuân, Nguyễn Nghiễm... liên tiếp xảy ra, triều đình phải vất vả đánh dẹp. Năm 1516, Trần Cảo khởi nghĩa ở Quỳnh Lâm, đem quân chiếm kinh thành. Đích thân vua Tương Dực cầm quân, đánh bại Trần Cảo, Cảo phải chạy về Ngọc Sơn. Viên tướng Trịnh Duy Sản trước kia có mâu thuẫn với nhà vua, nay dùng mưu giết vua Lê Tương Dực ở cửa nhà Thái Học. Cùng năm đó, Trịnh Duy Sản cùng các huân cựu đại thần lập người con mới 14 tuổi của Cẩm Giang vương Lê Sùng tên Lê Y lên ngôi tức vua Lê Chiêu Tông.[30]

Triều vua Lê Chiêu Tông

Theo lời bàn của sử thần, thời vua Lê Chiêu Tông, bên ngoài giặc giã nổi lên, bên trong quyền thần chém giết lẫn nhau, kinh sư đẫm máu. Năm 1517 người hai thế lực đương thời họ Thủy Chú (Trịnh) và họ Tống Sơn (Nguyễn) là Nguyễn Hoằng Dụ[31] và Trịnh Tuy[32] đánh lẫn nhau, Trịnh Tuy phải chạy về Lôi Dương, Thanh Hóa. Một thế lực khác là Trần Chân lại tìm cách đánh Nguyễn Hoằng Dụ, khiến Dụ phải tìm cách về Thanh Hóa, từ nay chỉ có Trần Chân làm phụ chính trong triều. Mạc Đăng Dung lúc ấy trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân viết thư khuyên Đăng Dung chặn lại, Đăng Dung không nỡ. Nguyễn Hoằng Dụ viết tờ thư và bài thơ gửi cho Đăng Dung, Đăng Dung án binh bất động, Hoằng Dụ chạy thoát về Tống Sơn, Thanh Hóa.[33]

Thời ấy có Cù Khắc Xương, Trần Khắc Xương mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng mê hoặc dân, Mạc Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch một số viên quan mê tín tà thuyết. Nhà vua nghe theo, giết những người ấy. Thiệu quốc công Lê Quảng Độ hàng phe nổi dậy Trần Cảo, Mạc Đăng Dung cũng dâng sớ khuyên nhà vua đem chém vì tội bất trung, vua cũng nghe theo. Từ đấy, nhà vua tin Mạc Đăng Dung là người trung trực, càng thêm ân sủng.[34][35]

Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông.[35]

Sau khi đánh đuổi được hai thế lực Nguyễn Hoằng DụTrịnh Tuy, quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Mạc Đăng Dung cũng phải sợ, liền dạm hỏi con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh. Bấy giờ, các đại thần bàn mưu với nhà vua, dụ Trần Chân vào cung, sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến cổng thành bị người giữ cửa bắt chém đi. Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù. Vua Chiêu Tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.[36]

Giúp vua Chiêu Tông đánh dẹp các thế lực chống triều đình

Trịnh Tuy lúc này cầm 1 vạn binh, đóng ở xứ Sơn Nam, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan vỡ cả. Quân của Nguyễn Kính, Nguyễn Áng tha hồ cướp bóc, kinh sư thành chỗ săn bắn, đánh cá. Chiêu Tông gọi Nguyễn Hoằng Dụ lúc này đang ở Thanh Hóa ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi. Lê Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính, nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.[37]

Mạc Đăng Dung từ Hải Dương về yết kiến vua, đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, cho rằng chỗ nhà vua ở là Súc Ý đường hơi, xin vua chuyển về dinh Bồ Đề để tiện theo hầu. Lại sai đi dụ hàng thủ hạ của Trần Chân, những người này nói phải giết những kẻ gièm pha trước kia, rồi sẽ hàng. Vua Chiêu Tông làm theo, nhưng họ đều không hàng, mà càng rông rỡ hoàng hoành, đóng quân không rút. Đăng Dung lại xin nhà vua chuyển nơi ở, hai viên quan can ngăn, Đăng Dung đều cho người giết chết.[38]

Theo sách Đại Việt thông sử, lúc này Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, nên nảy ý đồ khác. Ông mượn thế của quân địch để giết hết đại thần, chặt vây cánh của vua Lê Chiêu Tông. Bèn lập ra kế đi dụ quân địch, rồi mạo lời họ, ép triều đình giết chết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu và Chử Khải.[39]

Lúc này, Trịnh Tuy và các tướng ở Sơn Tây mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc lên làm vua, sau nửa năm phế, lại lập Lê Do lên. Vua Chiêu Tông lại mời Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Trịnh Tuy, Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây, Hoằng Dụ đem quân ra cùng với Đăng Dung đi đánh, quân Hoằng Dụ thua to, chết rất nhiều, Hoằng Dụ lại lui quân về Thanh Hóa. Từ đây Mạc Đăng Dung thống lĩnh quân thủy bộ.

Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hóa. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên.[40]

Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm Tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó. Năm 1521, sau khi đánh lui được Trịnh Tuy vào Thanh Hóa, Mạc Đăng Dung nắm quyền điều hành triều chính Nhà Lê. Đăng Dung mang quân đánh lực lượng của Trần Cung ở Lạng Nguyên. Trần Cung bại trận, bỏ chạy vào châu Thất Nguyên.[41] Mạc Đăng Dung điều quân tuần tiễu truy nã và bắt được Trần Cung, bị giải về kinh thành giết chết.[42]

Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Ông gây dựng phe cánh gồm thông gia Phạm Gia Mô làm Thượng thư Bộ Lễ, em rể là Quỳnh khê hầu Vũ Hộ làm Hữu đô đốc trấn thủ Sơn Tây; ngoài ra còn có các Thượng thư Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ngả theo ông. Mạc Đăng Dung lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái, vào làm cung tần để dò la tin tức, lại sai em là Mạc Quyết giữ đạo binh Túc vệ, con trai Đăng Doanh giữ điện Kim Quang.[43]

Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: "công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục".[42][44]

Khi đó Mạc Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm không kiêng sợ gì. Ông giết thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử vốn là những người trung thành với Lê Chiêu Tông.[45]

Vua Lê Chiêu Tông rời kinh sư, hiệu triệu thiên hạ hỏi tội Đăng Dung

Trước sự lớn mạnh của thế lực Mạc Đăng Dung, vua và các cựu thần Nhà Lê không bằng lòng, nhưng bất lực. Nghe theo lời một số cận thần trung thành, đêm 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông rời kinh thành chạy sang Sơn Tây hiệu triệu bốn phương hỏi tội Mạc Đăng Dung. Ngay ngày hôm sau, Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo, trận chiến xảy ra, Hoàng Duy Nhạc tử trận. Trong tình huống kinh thành trống vắng, vua không còn ở Kinh sư, Mạc Đăng Dung đã bàn với các đại thần tạm thời lập Hoàng đệ Xuân (Lê Cung Hoàng) làm vua. Ngày 1 tháng 8 năm 1522, Đăng Dung và một số triều thần Nhà Lê cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1.[42]

Chiêu Tông sai người triệu Vũ Hộ đến giúp, nhưng Vũ Hộ lại mang 3000 quân ngả theo Mạc Đăng Dung. Bấy giờ, các xứ Tây, Nam, Bắc đều theo Lê Chiêu Tông. Mạc Đăng Dung chia các dinh thủy, bộ đánh vào các xứ ở bến Đông Hà, Chiêu Tông sai Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư Hoan, Nguyễn Định, Đàm Khắc Nhượng dàn trận chống giữ và cầm cự, bị Đăng Dung đánh bại.[46] Trịnh Tuy từ Thanh Hóa ra cứu Lê Chiêu Tông. Nghe lời gièm pha, Tuy mang xa giá chạy vào Thanh Hóa, không liên kết với các tướng quanh kinh thành đang giúp Chiêu Tông, do đó lực lượng ủng hộ Chiêu Tông nhiều người giải tán.[47]

Bấy giờ, trong một nước có hai vua, vua Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa đại diện cho lực lượng cựu thần Nhà Lê do Trịnh Tuy cầm đầu và Lê Cung Hoàng ngự tại dinh Bồ Đề, mọi việc do Mạc Đăng Dung sắp xếp và đối phó. Sau khi đàn áp một số lực lượng nổi dậy, thế lực Mạc Đăng Dung vô cùng mạnh mẽ, kiểm soát và làm chủ vùng Kinh Bắc, quan lại và quân dân đến quy phục ngày một đông.[47]

Năm 1523, Mạc Đăng Dung sai em là Mạc Quyết cùng Vũ Hộ và Vũ Như Quế mang quân đánh Lê Chiêu Tông và Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Cùng lúc, ông nhân danh vua mới Lê Cung Hoàng tuyên bố phế truất Chiêu Tông làm Đà Dương vương. Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tiến đánh Trịnh Tuy ở đầu nguồn Thanh Hóa. Trịnh Tuy thất thế rồi qua đời, Chiêu Tông bị bắt giải về Kinh sư. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu. Ông tiêu diệt các tướng chống đối.[48]

Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính. Ngày 18 tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí mật giết Chiêu Tông ở chỗ bị giam lỏng là phường Đông Hà[48].

Lên ngôi vua, thành lập Nhà Mạc

Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: “lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô”.[49]

Ngày 15 tháng 6 năm 1527 Đông các Đại học sĩ Nguyễn Văn Thái soạn tờ chiếu, nội dung như sau:

"Nghĩ Thái Tổ ta, thừa thời cách mệnh, có được thiên hạ, các vua truyền nhau, nối giữ cơ đồ, là do mệnh trời lòng người cùng hợp, cùng ứng nên mới được thế. Cuối đời Hồng Thuận, gặp nhiều tai hoạ, Trần Cảo đầu têu gây mầm loạn ly, Trịnh Tuy giả trá lập kế phản nghịch. Lòng người đã lìa, mệnh trời không giúp. Khi ấy thiên hạ đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời, việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời lòng người đều theo về người có đức. Xét Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung nhà ngươi, bẩm tính thông minh, sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Hãy gắng sửa đức lớn, giữ mãi mệnh trời để ức triệu dân lành được yên vui. Mong kính theo đó."

Lúc bấy giờ rất nhiều quan lại tử tiết để phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh "phù Lê diệt Mạc". Bấy giờ triều thần có Lại bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Vũ Duệ, Lại bộ Thượng thư Ngô Hoán, Thị thư viện Hàn lâm Nguyễn Mẫn Đốc, quan Đô ngự sử là Nguyễn Văn Vận, quan Hàn lâm hiệu lý là Nguyễn Thái Bạt, quan Lễ bộ Thượng thư là Lê Tuấn Mậu, quan Lại bộ Thượng thư là Đàm Thận Huy, quan Tham chính sứ là Nguyễn Duy Tường, quan Quan sát sứ là Nguyễn Tự Cường, tước Bình Hồ bá là Nghiêm Bá Ký, quan Đô ngự sử là Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, quan Phó Đô ngự sử là Nguyễn Hữu Nghiêm, quan Lễ bộ tả Thị lang là Lê Vô Cương đều là người khoa giáp; có người thì khởi binh phù Lê thất bại và bị giết, có người thì theo vua Lê không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam Sơn bái lạy rồi tự tử. Sau này, khi dẹp xong nhà Mạc, nhà Lê được trung hưng lại, vua Lê Huyền Tông và triều đình bàn luận công lao, truy phong tước phúc thần cho 13 vị trung thần tiết nghĩa vì nước hy sinh này, trong đó xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người[50].

Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ, chính thức lập ra Nhà Mạc. Nhà Lê truyền được 100 năm đến đây kết thúc, nhưng công đức vua Lê Thái Tổ và vua Lê Thánh Tông làm cho nhiều người vẫn không quên nhà Lê, cho nên dù Mạc Đăng Dung có cướp được ngôi cũng không được lâu bền. Chẳng bao lâu, khắp nơi nổi lên những đội quân "phù Lê diệt Mạc" muốn diệt trừ Mạc Đăng Dung để khôi phục nhà Lê.[51]